Trâm mèo là một cô bạn đặc biệt. Chúng tôi quen nhau từ lúc còn làm chung ở Cốc Cốc. Nhưng đó là một đoạn thời gian rất rất ngắn, và ở đó hai đứa cũng không chơi với nhau vì Trâm làm buổi sáng còn mình thì toàn làm ban đêm. Bọn mình có những cross-over từ những câu chuyện về hành trình làm mẹ của Trâm mèo và chuyến di cư vào Hội An năm nào. Mình đồng hành cùng Bi ở hành trình lớn lên của cô bé, từ lúc bé xíu và vẫn lên đều đặn các show của IFO sau mỗi 5 năm như minh chứng cho những ngã rẽ thú vị mà dòng đời có thể đẩy ta đến. Bi lên sóng IFO ba lần ở ba thời điểm khác nhau, có lẽ là vị khách mời xuất hiện nhiều nhất trong show. Cho đến khi cô bé quyết định từ chối lời mời lên show “lần thứ tư” vì lý do là “không thích nữa”. Mỗi lần gặp Bi là một phiên bản khác, thú vị, bất ngờ. Trâm cũng vậy. Đằng sau tất cả những gì cô ấy làm đều là niềm say mê không dừng, và Trâm cũng luôn biết cách làm cho cuộc sống của mình thú vị theo cách này hay cách khác.
(Bạn có thể xem video phỏng vấn đầu tiên ở đây)

Tôi gặp lại Trâm ở Hội An và quyết định sẽ có một buổi hoàng hôn diễm lệ bên bờ sông, chúng tôi uống bia hơi Hà Nội giữa một bên là phố cổ và một bên là vùng đồng quê xa xa. Cập nhật rời rạc những mảnh ghép cuộc đời chưa kể sau ngần ấy năm. Từ căn nhà cũ đi thuê nhưng rất đẹp giữa Hội An, giờ Trâm đã chuyển sang một ngôi nhà mới – đẹp hơn, to hơn và nhiều dấu ấn cá nhân hơn. Tôi chỉ xem qua ảnh, vì mãi tới đêm mới về được tới nhà, do câu chuyện kéo dài từ chạng vạng đến tối.

Tôi đi chuyến này với mong muốn thả lỏng, được tâm sự với bản thân và với những người bạn lâu không gặp, ở một tâm thế mở lòng hơn. Những đứa trẻ 8x năm nào giờ đã đi qua nửa đời người mà vẫn còn ngơ ngác với những gì đang đến, hoặc đã bỏ ta đi. Chúng tôi nói nhiều về những “người đồng hành” và những đường đứt gãy trong tư duy của họ. Về Hội An – nơi đã bớt thưa người hơn so với một thập kỷ trước, và ta phải học cách quen với sự đông đúc và phức tạp hơn của đời sống.

Bên bờ sông, quán bia hơi, chúng tôi hát ở ngay bàn, hát vang những bài hát của tuổi trẻ ở quán bia hơi Hà Nội giữa lòng Hội An. Âm nhạc luôn dẫn dắt chúng ta một cách rất kỳ diệu để nhớ lại những cảm xúc xưa cũ của thời hoa niên. Sau khi hát chán chê ở quán nhậu chúng tôi đi tìm quán hát để hát cho chính chuyên. Tìm quán karaoke ở Hội An không dễ, Trâm cũng mới đi hát một lần trong 10 năm qua. May sao trí nhớ của nàng vẫn chính xác, sau một hồi vòng vèo, chúng tôi cũng đến được quán quen. Mình hát bài của mình, Trâm hát bài của Trâm, nhưng vì cùng thế hệ nên dễ hát cùng nhau. Hà Trần, nhạc phim VFC, cả những người bạn chung lâu không gặp. Việt Linh – bạn chung của cả hai, là cậu sinh viên ngân hàng “mê điện ảnh” trong dàn cast “Phía trước là bầu trời” ngày nào. Chúng tôi mở bản karaoke nhạc phim, nhìn lại những phân cảnh ngả màu thời gian và hát để gửi tặng Linh từ nửa vòng trái đất nhân ngày sinh nhật cậu ấy, và cũng là món quà dành tặng cho thanh xuân của chính mình. Đêm về, phố Hội tĩnh mịch. Những con hẻm nhỏ ven sông trở nên thi vị hơn bao giờ hết. Chạy xe máy phá vỡ cái yên ắng ấy giống như lũ trẻ con ngày xưa trốn bố mẹ đi chơi – háo hức hơn là sợ. Mà ai chẳng háo hức với những hành trình, đặc biệt là những điều chưa biết rõ.

Sáng hôm sau, chúng tôi sẽ chạy xe máy về phía Tây của Quảng Nam, đến vùng núi dãy Trường Sơn – nơi người Cơ Tu sinh sống. Tôi thức dậy trong căn phòng viết – một căn phòng mở ra khoảng xanh cây cỏ, cánh cửa lớn, chiếc quạt trần cũ kỹ xoay nhè nhẹ như tạo nhịp cho tư duy viết lách. Cả nhà Trâm đã dậy sớm và đang nhuộm sợi. Trâm đi đâu cũng xin tro để mang về nhuộm. Nhìn những sợi tơ óng ánh, bay nhẹ trong nắng sáng Hội An, tự thân nó đã rất yên bình. Và yên bình thì cũng hay đi kèm với lề mề. Chúng tôi rời nhà vào giữa trưa, ghé vài điểm yêu thích của Trâm: quán cà phê ruột, mì Quảng ruột, trước khi chính thức lên đường.

Chúng tôi ra khỏi thành phố để hướng về phía Điện Bàn, trước khi vào quốc lộ 14G để Tây tiến. Ở Quảng Nam có vùng núi dọc theo dãy Trường Sơn, với tên gọi hai huyện (thời chưa sáp nhập) là Đông Giang và Tây Giang – những cái tên nghe rất hay và rất văn học. Nhiều người hay ví von đây chính là vùng Tây Bắc của miền Trung, với đồi núi trập trùng. Bầu trời mùa hè miền Trung khá nhiều mây, nên trong cung đường này, thứ màu sắc chúng ta sẽ nhìn thấy nổi bật sẽ là màu xanh của cây cỏ và màu trắng, xanh của mây ẩn hiện đằng xa. À, và cả màu vàng của nắng nữa chứ! Một palette màu rất đẹp để ta tận hưởng vẻ đẹp của miền Trung khi đi sâu vào vùng núi phía Tây.


Nếu hỏi đường có đẹp không thì thật ra cũng rất khó nói. Đoạn đường đầu tiên đẹp cho đến Đông Giang, và trên đường đi Tây Giang thì đường đẹp, đường xấu đan xen nhau – như một thử thách tay lái, và cũng như để gợi nhắc ta về những cung đường xấu ta đã từng đi. Mà trong quá khứ thì tỉ lệ đường xấu trong ký ức sẽ rất nhiều, nên cũng là một cách hay để gợi nhớ. Và trong ký ức chạy xe của tôi dọc miền đất nước, thì những cơn mưa núi luôn là điều khó quên. Mưa núi là mưa rồi tạnh, mưa rồi tạnh, hình thù của những đám mây đằng xa ẩn hiện sau núi có thể sẽ mang theo một cơn mưa xối xả khiến ta ướt như chuột, và việc cô liêu trong cảnh núi rừng – không một mái nhà để trú – cũng là một “đặc sản” ở đây, đặc biệt là khi ở thành thị thì đâu đâu cũng san sát nhà. Thì cái đặc ân được chạy xe dưới mưa cũng là thứ để nhớ.

Và tất nhiên, dọc đường đi giữa những cơn mưa nắng là rất nhiều nét văn hoá Cơ Tu ẩn hiện giữa núi rừng. Những đôi mắt với lông mi cong vút, màu da của đất và tóc loăn xoăn sẽ có lúc vẫy tay chào ở dọc đường, khiến ta bất giác nhoẻn một nụ cười hạnh phúc. Có lúc, ta sẽ dừng lại ở giữa bao la núi rừng và im lặng để tận hưởng cảm giác thiên nhiên thoáng đạt ấy. Có lúc, ta sẽ im lặng suốt một quãng dài chỉ để nghe âm thanh của gió vút qua tai – thứ ambient thân thuộc nhưng gây nghiện của những kẻ nhớ những chuyến đi xa.

Chúng tôi set điểm đến là một địa danh gọi là Đỉnh Quế ở Tây Giang. Nằm cheo leo giữa dãy Trường Sơn hùng vĩ, Đỉnh Quế là nơi mây nằm dưới chân người, gió thổi từ biên giới Lào về hun hút. Cung đường hiểm trở dẫn đến một miền đất hoang sơ, nơi đồng bào Cơ Tu sinh sống bao đời, gìn giữ những nét văn hóa đậm đà giữa rừng sâu núi thẳm. Người Cơ Tu sống hòa mình với rừng. Họ coi rừng là mẹ, là nơi nuôi dưỡng và che chở. Mỗi cánh rừng, dòng suối đều có thần linh canh giữ – đó là lý do người Cơ Tu rất tôn trọng thiên nhiên và có luật tục bảo vệ rừng nghiêm ngặt. Đồng bào Cơ Tu sống nương mình theo núi rừng, nên cứ đi qua một con suối ta lại bắt gặp một làng Cơ Tu hiện ra giữa thiên nhiên. Cái nhịp đều đặn đó làm cho ta tận hưởng từng đoạn đường, con suối và cả từng bản làng với vẻ háo hức riêng.

À, lý do Trâm muốn đi về vùng núi này là vì muốn gặp lại một người bạn – một nghệ nhân thêu người Cơ Tu tên là Treng (lúc đầu đến mãi về sau tôi cứ tưởng là Trang) – mà cô đã từng gặp trong một workshop chia sẻ về nghề thêu. Lúc đó, chị Treng và chồng đã lặn lội từ vùng núi xuôi về Hội An tham gia. Nhà chị Treng ở Đông Giang – nửa đường đi tới Tây Giang – và chúng tôi quyết định đi xa hơn về Tây Giang, đoạn giáp biên giới Lào, để ngày mai quay trở lại tìm chị Treng ở Đông Giang sau. Nghe có vẻ là một kế hoạch cũng cũng. Nhưng không có kế hoạch nào có thể tính lại ông trời và những buổi chiều mưa núi.

Chúng tôi đi giữa những cơn mưa núi. Và cơn mưa dài nhất kéo từ chiều cho đến khi tối mịt. Chúng tôi lao xe đi giữa những khúc khuỷu đèo dốc và màn sương, màn mưa mờ trước mặt, không biết phía trước mình sẽ là gì, chỉ biết đếm ngược từng km đã đi qua. Và rồi, cái nhà có le lói ánh đèn đột nhiên hiện ra lưng chừng đèo – đúng là cái homestay chúng tôi cần ghé. Trâm đã gọi điện, nhắn Zalo nhưng đều không thành công, khi anh chủ chỉ nói gọn: “Cứ lên đi.” Và tối hôm ấy, khi chúng tôi ghé, thì anh chủ cùng cái điện thoại vẫn đang du lịch ở… chỗ công an huyện – một nơi cũng cách đó khá xa.
Đón chúng tôi là ba mẹ con, lúc đó vừa ăn cơm tối xong. Chỉ có ba cái nhà rông bé bé nhìn ra thung lũng làm chỗ lưu trú, và đồ ăn cũng chỉ có trứng, một ít thịt và lạc – do anh chồng đã không thông báo là có khách đến, nên những gì chúng tôi có được cho bữa tối cũng giống như những gì gia đình vừa ăn xong.

Đêm, giữa tiếng tĩnh mịch và tiếng mưa lộp độp nặng hạt dần, mình thì ấm áp bên mâm cơm, bên bếp lửa và bên cút rượu tà vạt ấm nồng – cảm giác dễ gì có được. Và đêm đó cũng là một đêm ngủ rất ngon, giữa núi rừng Tây Giang hiểm trở và tiếng mưa tí tách cả đêm.

Buổi sáng ở Đỉnh Quế là một món quà quý của thiên nhiên dành cho những ai chịu dậy sớm. Tôi dành buổi sáng lang thang trên những con dốc, ngắm nhìn mây lảng vảng ở nhiều tầng khác nhau – ẩn hiện trong cây, trong núi – rồi bắt đầu thắp đèn rực rỡ cùng những giọt nắng vàng óng đầu ngày. Một bức tranh thiên nhiên quá đỗi diễm lệ và trong lành. Chúng tôi dành buổi sáng để trò chuyện cùng những người host Cơ Tu chân chất, thật thà, cả hai vợ chồng bây giờ mới xuất hiện sau khi anh đã về nhà. Chúng tôi lắng nghe họ kể chuyện làm du lịch từ chính núi rừng quê mình. Và rồi có lời hứa chắc chắn sẽ quay trở lại – để ở lâu hơn, để đi sâu hơn vào mạch của thiên nhiên, với những cung đường trek đi sâu vào trong rừng, trong núi.

Rời Đỉnh Quế, trên đường về, chúng tôi quay lại Đông Giang tìm nhà chị Treng. Lại tiếp tục hành trình cùng chiếc xe máy rong ruổi theo những cung đèo dốc, băng qua các thị trấn và xóm làng nhỏ xíu dọc đường. Các hàng quán ăn ven đường nếu có thì cũng chỉ có hai món: bún và mì. Tức là bún bò và mì Quảng, với các loại nhân quen thuộc như gà, cá hay bò. Nhưng cứ đi đường mà ăn thì món gì cũng thấy ngon! Luôn luôn là vậy.


Đường về cũng như đường đi, với trập trùng mưa núi làm khó mình chỗ này hay chỗ khác. Chúng tôi trú mưa ở một nhà Gươl – nhà cộng đồng của làng Bhơhôông, xã Sông Kôn – tình cờ cũng là nơi chị Treng sinh sống. Nhà Gươl là nơi diễn ra các nghi lễ, sinh hoạt văn hóa và chuyện làng. Mái vòm độc đáo, dựng hoàn toàn từ gỗ rừng, bởi chính tay những người đàn ông trong bản. Lúc chúng tôi đến thì cũng có mấy anh thợ điện đang trú mưa cùng đám trẻ con Cơ tu.


Chị Treng ra đón chúng tôi về nhà. Bọn tôi có một buổi trưa dưới mái nhà người Cơ Tu, ngồi nghe một người phụ nữ kể chuyện thêu, về kỹ thuật chị đã học được, đang cố gắng trao truyền lại – để giữ nghề, giữ hồn dân tộc.

Người Cơ Tu là một trong số ít các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn và Tây Nguyên còn lưu giữ được nghề trồng bông, dệt thổ cẩm. Họ có những giống bông bản địa riêng, gọi là kpay plâng, kpay lao, kpay plưng mà ngày nay thường được gọi là bông thượng hay bông cỏ. Mỗi cô gái Cơ Tu đến tuổi lấy chồng đều phải biết dệt vải, đây không chỉ là kỹ năng mà là thước đo tinh thần, là tiêu chuẩn đánh giá tài năng và đức hạnh. Nghề dệt thổ cẩm của người Cơ Tu hoàn toàn thủ công và khép kín, từ nguyên liệu: bông, gai, đay, đến xe sợi, nhuộm, dệt, tạo hoa văn, tra cườm, thêu, rồi may thành phẩm. Và qua câu chuyện của chị Treng mình mới để ý trang phục Cơ Tu khác với sự rực rỡ của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc – nơi áo mũ nhiều hạt cườm, sắc màu sặc sỡ. Người Cơ Tu có nét riêng. Màu đen và đỏ là chủ đạo, xen vào là xanh, trắng, vàng – những màu sắc của núi rừng: đen là màu của đất, đỏ là trời, xanh là rừng núi, trắng là điểm xuyết như cách thiên nhiên điểm hoa văn lên đất trời.

Chị Treng đem khung dệt ra giới thiệu ngay tại nhà, một chiếc khung dệt theo Trâm là “rất cơ động”. Khung dệt cổ nhất còn tồn tại được gọi là khung dệt inđônêsiên, giữ bằng chân, dệt bằng tay, ghép từ các bộ phận rời chỉ thành hình khi bắt đầu giăng sợi. Dù thô sơ, khả năng dệt hoa văn bị hạn chế, nhưng vẫn cho ra những tấm vải mang đậm văn hóa người Cơ Tu. Tận mắt chứng kiến từng khâu thêu hoa văn, tra cườm trên nền vải thổ cẩm mới thấy để hoàn thành một tấm đẹp, người phụ nữ Cơ Tu như chị Treng đã kỳ công biết chừng nào. Làm quen với khung dệt từ năm 14–15 tuổi, trải qua nhiều năm thăng trầm với chỉ sợi, khung tre. Dệt không nặng nhọc, nhưng đòi hỏi thời gian, sự tỉ mỉ, khéo léo và cả sáng tạo. Chị Treng nói: “Dệt là giữ nghề. Nếu chỉ vì tiền thì chắc không ai dệt nữa.” Một tấm khố cườm dài 4 mét mất 10 ngày. Một tấm choàng đôi mất hơn 20 ngày. Áo adoót: 5 ngày. Váy dài: 10 ngày… Giờ đây, phần lớn thiếu nữ trong làng không còn hứng thú với nghề. Họ mặc đồ truyền thống vào dịp cưới hỏi, lễ Tết, còn ngày thường thì mua sẵn – hoặc mặc đồ các chị để lại. Dù vậy, chị Treng vẫn miệt mài ngày đêm, thêu dệt những hoa văn bắt mắt, mong rằng thế hệ trẻ nữ sẽ nối tiếp nghề tổ – không để nó rơi vào quên lãng. Trâm – bạn tôi – vốn mê thêu, mê những tri thức bản địa được trao truyền qua nhiều thế hệ. Gặp chị Treng, Trâm vui lắm, và tôi cũng thấy vui lây. Tôi luôn tin rằng sự tò mò của con người là một điều thú vị. Chính sự tò mò ấy làm cho hành trình của chị Treng – một người phụ nữ Cơ Tu sống với nghề – trở nên nhiều màu sắc hơn. Và cũng chính nó, đã kết nối chị với Trâm – để họ gặp nhau, và biết đâu, từ những lần gặp như thế, lại nảy ra những dự án giá trị, đẹp đẽ hơn. Trâm hứa sẽ quay lại, ở lại lâu hơn, để học thêu, học dệt, để sống giữa rừng, và để thỏa cơn tò mò của mình về một nhịp sống xa xôi nhưng không hề xa lạ – nơi vùng núi phía Tây Quảng Nam.

Chuyến đi về phía Tây không dài, nhưng đủ sâu để ta lắng nghe một nhịp sống khác – nơi người ta không vội, không ồn ào, chỉ lặng lẽ gìn giữ những điều xưa cũ như giữ một ngọn lửa âm ỉ qua mùa mưa núi. Ở đó, mây nằm dưới chân người, và những đôi bàn tay dệt nên bản sắc. Ta đi có thể không để gặp một ai đó, nhưng rồi lại gặp chính mình trong gió núi, trong ánh mắt người Cơ Tu, trong khung dệt thô sơ và tiếng cười rất thật bên mâm cơm chiều.
Tự hứa trên đường xuống con dốc cuối cùng của đèo dốc mưa núi miền trung rằng sẽ có ngày ta quay trở lại – không phải để hoàn tất một chuyến đi, mà để sống tiếp những điều đã bắt đầu.

Quảng Nam, tháng 6, 2025

