Đứa bé dạo chơi cùng truyền hình

Mình đến với duyên nghiệp báo bằng một tình yêu rất đỗi ngây thơ, một niềm đam mê thuần khiết dành cho truyền hình từ hồi còn rất sớm. Hồi đó, chắc khoảng lớp 4 hay lớp 5, nhà có cái tivi đầu tiên, một chiếc hộp nhỏ xíu, 14 inches, và nó đã trở thành người bạn thân thiết đầu tiên, dẫn dắt mình vào thế giới diệu kỳ của màn hình phát sóng.

Thời đó, “vô tuyến” là từ vừa gợi xưa cũ vừa rất đúng vì đúng là phải “vô cùng kiên nhẫn” mới xem được truyền hình. Cứ gió nổi hay mưa xuống là ăng-ten lại bị lệch, hình ảnh nhiễu sọc chạy loạn. Mình vẫn nhớ, mỗi lần có phim hay hay chương trình “đinh”, bố mình sẽ trèo hẳn lên mái nhà, chỉnh tay từng góc ăng-ten cho đến khi hình ảnh rõ nét nhất. Đó là thứ tình yêu và kiên nhẫn đầu tiên nuôi lớn đam mê của mình với nghề kể chuyện qua màn ảnh nhỏ.

Cấp 2, mình có một quyển sổ tay nhỏ, chuyên để chép lại tên và chức danh của những người có tên trong phần credit cuối chương trình. Mình học những thuật ngữ đầu tiên từ đấy, dù có những chức danh như “kỹ thuật VTR” thì hồi bé mình vẫn quen miệng dịch thành “vũ trường”. Sau đó mình bắt đầu viết lại lịch phát sóng của cả VTV lẫn HTV mỗi ngày, rồi tưởng tượng ra cả… đài truyền hình của riêng mình: LTV – Lê Thắng TV. Mình còn có ngày khai trương chính thức, đội ngũ “toàn hiền tài” từ cả hai đài, và sơ đồ chương trình mỗi khung giờ.

Trong cái thế giới trẻ con đó, mình tự tin là đạo diễn, MC, giám đốc và cả biên tập viên trưởng. Mình xếp đồ chơi thành trường quay, tưởng tượng có máy quay, có dàn dựng, có cả khán giả phía sau. Tất cả chỉ là trò chơi, nhưng cũng là khởi đầu của một mối duyên không bao giờ rời.

Mình mê tin tức, mê việc được đứng ở góc nhìn thứ ba quan sát mọi thứ. Mình bắt đầu mang những “show truyền hình” vào lớp học: talkshow có, reality show có, gameshow cũng có. Khán giả là bạn cùng lớp, khách mời là thầy cô. Mọi thứ mình thấy trên tivi đều có thể mô phỏng theo kiểu rất “mình”. Nên có thể nói, mình đã học nghề báo chí và truyền hình từ những ngày phổ thông.

Hình mẫu truyền cảm hứng ngày ấy là nhà báo Thanh Lâm, người có giọng nói vững chãi giữa những điểm bão lũ. Mình không hiểu hết, nhưng cảm được sức hút của một người nói thông minh và có trọng lượng. Sau này, anh Lâm chính là sếp, là mentor – người đã mở ra cho mình nhiều cánh cửa học bổng và cả những ngã rẽ quan trọng trong nghề.

Rồi mình mang theo ước mơ đó vào thẳng đại học – mà là một trường nghe không mấy liên quan: Đại học Luật. Mình được tuyển thẳng vào đó. Và chính quãng đời sinh viên tự lập, sống tự lo đã cho mình cơ hội được trải nghiệm nhiều. Năm nhất, mình làm thêm đủ thứ việc để nếm trải cuộc sống. Mình chơi thân với các bạn học báo chí của Nhân Văn, học ké không thiếu buổi nào. Cô Sơn Ca – cô dạy Lịch sử báo chí, người Khánh Hòa, lúc đó còn trẻ và rất thương mình dù chẳng phải sinh viên chính quy. Cô giờ đã mất.

Nhóm bạn thời báo chí ấy vẫn là bestie của mình đến tận bây giờ. Có đứa làm báo, có đứa làm nhà sản xuất phim lớn, có đứa bỏ nghề mấy lần, có đứa biến mất rồi lại xuất hiện như trò ảo thuật. Mình quý tất cả – vì tụi nó là những mảnh ghép đầu tiên trong bức tranh nghề mà mình theo đuổi.

Năm hai, mình ở trọ với một ông anh tên Hào từ Bắc Giang – người học giỏi, trượng nghĩa, nhưng vì hoàn cảnh nên từng phải chọn học sư phạm vì đỡ học phí. Sau đó, anh Hào bỏ hết để vào Sài Gòn học kiến trúc – đúng thứ mình thích. Anh rủ mình đăng ký thi MC HTV – chính là cuộc thi Én Vàng mùa đầu tiên. Anh Hào thi để kiếm tiền, còn mình thi vì… tò mò. Kết quả là anh bị loại từ vòng gửi xe, còn mình vào tận chung kết xếp hạng – trở thành thí sinh trẻ tuổi nhất. Khi ấy, 19 tuổi, mình như bước vào một thế giới hoàn toàn mới. Các cô chú ở HTV động viên: “Cố lên, thấy em có chất Larry King lắm đó.” Mình tin luôn. Và mình đã đi theo niềm tin đó tới tận bây giờ.

Mình được làm báo qua rất nhiều chuyến đi. Mình từng “cày nát” Bắc – Trung – Nam, sống và làm việc ở nhiều nơi trên thế giới. Với mình, người làm báo là người giàu có nhất – không phải giàu tiền, mà là giàu trải nghiệm. Nhờ nghề này, mình sống được nhiều cuộc đời, đặt được nhiều câu hỏi, chạm được vào những góc tối và cả những niềm vui tinh khôi nhất. Có những ngày đứng giữa tang thương mà lòng thắt lại, có những ngày đứng giữa đồng xanh mà nước mắt rơi vì tự hào.

Và rồi mình về Đài Truyền hình Việt Nam, dừng chân lâu hơn sau nhiều ngã rẽ. Làm truyền hình và truyền thông giáo dục mở ra cho mình một chân trời mới – nơi mình vừa được làm vừa được học, được sai để học, và được học cả từ những người sếp, người chị luôn dang tay dẫn dắt. Đó cũng là những năm đầu tiên của làn sóng số hóa truyền thông – và cũng là một trong những chặng đường đẹp nhất của đời làm báo.

Đến giờ, các chương trình tin tức vẫn là bạn đồng hành bền bỉ nhất của mình. Có lẽ, trong giới MC, mình là một trong những người gắn bó lâu nhất với các morning show. Thói quen dậy sớm – từ 4 giờ sáng để chuẩn bị giọng cho bản tin – vẫn chưa từng mất. Mình không làm MC để chạy show hay để dạy học. Mình chỉ muốn được là người kể chuyện, mỗi ngày. Và đó là lý do bố mẹ vẫn thấy mình mạnh khỏe mỗi sáng, qua màn hình.

Mình tin rằng báo chí là một môn khoa học rất nhân văn – và đòi hỏi sự liên ngành thực thụ. Một khi đã chọn lên đường, bạn sẽ có muôn vàn hướng đi – miễn là bạn tiếp tục đi tiếp. Và miễn là bạn vẫn còn giữ niềm vui được kể chuyện.

Còn mình thì vẫn đi. Nhẹ nhàng như cách sóng truyền ngày nào – dù có nhiễu, có mất tín hiệu, nhưng vẫn tìm đường đến được với một ai đó đang chờ.

Dẫn bản tin Cuộc sống 24 của VTC14 một news show mà anh Kim Trung lúc đó đã xây format câu chuyện buổi sáng thú vị. Mình dẫn cùng cô bạn thân Hải Hằng

Bình luận về bài viết này