Đúng như dự đoán từ đêm trước, mình thức dậy cùng những tia nắng sớm đầu tiên của ngày mùa hạ, khi cả cái dorm được phủ ánh sáng qua chất liệu đặc biệt của vách tường. Nếu từng trải qua cuộc sống tập thể, bạn sẽ hiểu cái cảm giác buổi sáng nhìn mọi thứ và nhìn người bạn cùng phòng bằng đôi mắt còn ngái ngủ – rất thú vị. Tôi và cậu bạn cùng phòng lặng lẽ làm những việc buổi sáng theo cách riêng của mỗi người, trong một nhịp hân hoan đến lạ. Chúng tôi hỏi nhau đủ để biết các thông tin cơ bản, đúng kiểu ngày xưa ta hay chào hỏi người bạn đồng hành ở cùng dorm. Có những lúc, người bạn tình cờ ấy lại đồng hành cùng bạn trong một chặng đường không ngờ tới.
Cậu bạn cùng dorm là một chàng trai IT, và từ vẻ ngoài đến cách sống đều rất “IT”. Hôm nay là ngày làm việc cuối cùng trong chuỗi 10 ngày đến và làm việc ở Huế. Cậu ở đây lâu hơn, xem dorm như đại bản doanh cho những món đồ đạc đơn giản của mình. Hằng ngày, cậu mượn xe đạp để đạp đi làm và khám phá xứ Huế bằng cách chậm rãi, bình thản. Chiều nay, sau giờ làm cuối, cậu cũng sẽ ra ga đón tàu vào Đà Nẵng, vừa để tiếp tục công việc tại chi nhánh mới, vừa để bơi biển mỗi ngày và đi xem pháo hoa. Một chàng trai rất “typical IT”, ít nói, hay cười, nhưng lại lãng mạn đến bất ngờ. Chúng tôi đã cùng “yeah” lên khi biết cả hai đều chọn đi tàu hỏa vào Đà Nẵng, vì cung đường ấy quá đẹp, quá diễm lệ. Một anh bạn IT đầy óc phiêu lưu, đã chọn một cách tận hưởng công việc và cuộc sống thật hay ho. Cậu chắc chắn sẽ nhớ những điểm đến này, là nơi để sống, để yêu, chứ không chỉ để check-in.

Còn tôi, vẫn còn nguyên buổi sáng để tận hưởng nhịp đời Huế nhẹ nhàng trôi chảy trong một kiệt nhỏ bình yên giữa lòng cố đô. Em lễ tân hiền khô giới thiệu quán cơm hến đầu kiệt để ăn sáng. Món này mình từng ăn ở nhiều nơi, nhưng luôn có cảm giác không chuẩn vị, hoặc thiếu thiếu cái gì đó. Mình nghĩ mãi không ra thứ bị thiếu đó là gì. Chỉ đến khi ngồi xuống quán, gọi tô cơm, giữa không khí buổi sáng với nhiều người ghé ăn hoặc mua về, mình mới hiểu ra: cái thiếu ấy là tinh thần cơm nhà nghèo. Cơm hến ở Huế thường là cơm nguội rời rạc, thứ cơm mà ăn ngay hạt đầu tiên đã cảm nhận rất rõ cái vị của những năm tháng thiếu thốn. Và đôi khi, cái tinh thần “nhà nghèo” ấy lại là điều thưa vắng trong cuộc sống hiện đại.

Mười năm trước, tô cơm hến chỉ 10 nghìn. Giờ là 15 nghìn, vẫn là một bữa sáng rẻ mà ngon. Cơm nguội, quyện hến xào, rau sống thái sợi, lạc rang đỏ, da heo giòn, sa tế cay, và chén nước hến nóng bỏng tay, được chan vào khiến người ta xuýt xoa nhắm nghiền mắt khi ăn thìa đầu tiên. Như thể cả một quãng ký ức nghèo khó ùa về bám chặt các giác quan, tạo nên một bữa sáng vừa ngon, vừa cảm xúc. Dù ngon, tô cơm hến cũng khá tí hon với dạ dày buổi sáng. Tôi từng có lần ăn đến ba tô trong một chuyến ghé Huế. Nhưng lần này thì chỉ ăn một tô thôi, vì muốn nhường bụng cho bún bò Huế. Bún bò bây giờ thành món ăn quốc dân – ra Hà Nội ngày xưa là phải biết quán ở Quang Trung, ở đường Láng, giờ thì khu nào cũng có vài ba tiệm. Nhưng ăn bún bò ở Huế vẫn có cái vị riêng – đậm hơn, đã hơn. Và cũng như cơm hến, cái ngon đến từ không gian và tinh thần của quán. Quán tôi ăn nằm ngay cổng chợ – mà chợ thì luôn là một xã hội thu nhỏ. Vừa ăn, vừa quan sát, vừa lắng nghe giọng Huế vang lên qua những câu chuyện đô thị – cảm giác ấy không đâu có được.

Bữa sáng ngon lành là cú đề-pa mạnh để bắt đầu một ngày mới. Tôi quay lại Sahi để tận hưởng khu vườn xanh mướt, không khí trong lành của xứ Huế. Về phòng, mở cửa đón nắng sáng len vào như động viên người lữ khách ngồi xuống viết lách. Không gian luôn có sức quyết định rất nhiều để người ta mải mê theo con chữ. Ở một ngõ nhỏ xứ thần kinh, tôi đã ngồi viết một mạch đến tận trưa, trong cái nhịp yên ả suýt quên mất mình phải ra ga cho kịp chuyến tàu vào Đà Nẵng.



Trưa đến, trời nắng gắt khiến không khí ở khu vực ga Huế như đặc lại. Bên ngoài có nhiều hàng quán, xe cộ nối nhau đến chở khách. Tàu trễ khoảng 30 phút. Phòng chờ xôn xao một lúc rồi lại chìm vào thứ ambient chậm rãi, nơi mọi người đều chăm chú vào màn hình vuông nhỏ xíu trong tay. Khi tàu còn cách 10 phút, mọi người được vào sân ga. Giờ đi tàu đã tiện hơn với vé điện tử, nhưng tôi vẫn thấy cầm tấm vé giấy hồng hồng bé xíu vẫn “oách” hơn. Bên trong sân ga cũng tấp nập như bên ngoài. Tôi nhớ lần đầu đi tàu Thống Nhất từ Sài Gòn ra Hà Nội, đến Huế là bắt đầu thấy đồ ăn dọc đường thay đổi. Người người tranh thủ check-in trong nắng vàng như mật ong đổ lên sân ga, đường ray, và cả dáng bác nhân viên già băng qua sân thực hiện nhiệm vụ. Khác với đi máy bay, điều “ăn tiền” nhất khi đi tàu chính là cảm giác chờ đợi. Giống như hai đứa trẻ chờ những đốm sáng vụt đến ghé ga xép, ở đây, chúng tôi chờ đoàn tàu sẽ mang mình đi đến điểm tiếp theo – Đà Nẵng. Đó là một nỗi thấp thỏm xen lẫn háo hức. Với trẻ nhỏ là tò mò. Với người lớn, có khi là chút hoài niệm, về một lần từng chia tay ai đó ở sân ga.
Tàu đến bằng tiếng loa phát thanh rộn ràng, bằng tiếng hành khách đứng dậy xếp hành lý, bằng tiếng còi tàu vọng lại từ xa rồi từ từ tiến vào. Mọi người lên khoang, hoà cùng hành khách từ Hà Nội và các ga trước, một xã hội thu nhỏ trong không gian lắc lư nhưng đầy sinh động. Tôi không ở chỗ ngồi, vì hành trình Huế – Đà Nẵng không dài, mà lại đẹp miên man. Toàn bộ vẻ đẹp miền Trung – rừng, biển, đèo – như một màn hình LED khổng lồ ở ngay ngoài cửa sổ. Tôi chọn một chỗ quen thuộc, toa căn tin, nơi có thể nghe những câu chuyện hoả xa từ các nhân viên đường sắt. Tôi từng có chuyến tàu xuyên Việt với những kỷ niệm dịu ngọt, từng dừng bất ngờ ở Quảng Bình – đã kể trong Việt Nam ngoài cửa sổ. Lần này, tôi lại ngồi đó – nghe những câu chuyện rôm rả vào bữa trưa, giữa những khung cảnh ngoài kia đang trôi qua đầy tự hào.


Ở bên cửa sổ Việt Nam đang lướt qua tầm mắt thật đẹp, đầy kiêu hãnh và tự hào. Việt Nam thời của “tỉnh dài, huyện rộng, xã to” đang hiện ra và chầm chậm trôi qua khung cửa sổ.

Tạm biệt Bình Trị Thiên. Xin chào Đà Nẵng.

Đà Nẵng tháng 6
Đọc thêm: Việt Nam ngoài cửa sổ

